Biến đổi khí hậu (BĐKH) có tác động toàn cầu và gây thiệt hại ngày càng trầm trọng cho nhiều quốc gia, khu vực. Việt Nam là một trong những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH. Tại Tây Bắc, cơn bão Yagi năm 2024 và các đợt mưa, lũ tháng 7, tháng 8.2025 đã để lại những hậu quả lớn. Các đợt nắng nóng gây hạn hán, các trận mưa lớn kéo dài và phương thức sử dụng đất không bền vững làm cho những thiệt hại do BĐKH trở nên nghiêm trọng hơn. Do vậy, việc tìm hiểu ảnh hưởng của BĐKH đến tài nguyên đất tại Tây Bắc là rất cần thiết để có những giải pháp quản lý, sử dụng đất bền vững.
1. Tình hình biến đổi khí hậu tại Tây Bắc
Giai đoạn 1961 – 2018, diễn biến, xu thế của các yếu tố thời tiết tại vùng Tây Bắc giai đoạn 1961 – 2018 có thể tóm tắt như sau: Nhiệt độ trung bình toàn vùng có xu thế tăng với mức độ tăng khoảng 0,2ºC/thập kỷ. Lượng mưa năm, mưa lớn không rõ xu thế. Các trận lũ có biên độ trên 1.0 m có xu thế giảm, có thể do tác động của việc điều tiết của 03 hồ chứa thủy điện lớn điều tiết dòng chảy là các hồ Lai Châu, Sơn La và Hòa Bình. Số trận lũ quét và sạt lở đất xảy ra trong năm tại vùng khí hậu Tây Bắc có tính bất thường cao hơn so với các vùng khí hậu còn lại. Nắng nóng, hạn hán có xu thế tăng với mức độ tăng khoảng 0,82 ngày/thập kỷ. Rét đậm, rét hại có xu thế giảm với mức độ giảm 2,87 ngày/thập kỷ. Mưa đá đã xảy ra ở nhiều địa phương trong vùng. Số ngày sương muối tiềm năng trung bình toàn vùng có xu thế giảm với mức độ giảm 0,81 ngày/thập kỷ [1].
Từ năm 2019 đến nay, hiện tượng nóng lên toàn cầu có xu thế tăng nhanh. Khí hậu Tây Bắc Việt Nam cũng có những thay đổi với diễn biến cực đoan của thời tiết ngày càng phức tạp, không theo quy luật và cường độ lớn. Mùa mưa dần ngắn lại, ngày nắng nóng tăng lên. Vài năm trở lại đây, nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất có thời điểm lên đến 35oC. Từ tháng 1 đến tháng 4/2021, lượng mưa trung bình trong tháng chỉ đạt từ 10 – 20mm. Có tháng dưới 10mm. Tổng số giờ nắng trong năm của Tây Bắc dao động từ 1.800 giờ đến 2.000 giờ, hầu như không có tháng nào dưới 100 giờ nắng; nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất ở Tây Bắc khoảng từ 25 – 27oC [9]. Thời tiết có khuynh hướng chuyển từ bốn mùa thành hai mùa. Mùa mưa dần ngắn lại nhưng có nhiều trận mưa lớn kéo dài, mùa khô kéo dài, số ngày nắng nóng tăng lên, mùa hè nhiệt độ ngày càng cao. Lốc, sấm sét, mưa đá xảy ra ít nhất 2 lần/năm với kích thước của viên đá to hơn, gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp.
2. Một số đặc điểm tài nguyên đất Tây Bắc
Đất đai Tây Bắc được sử dụng chủ yếu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng và hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp. Đối với đất nông nghiệp, nghiên cứu của Trần Minh Tiến và cộng sự tại 6 tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai và Yên Bái cho biết: Đất nông nghiệp vùng miền núi Tây Bắc được chia thành 10 nhóm đất, 17 đơn vị đất. Hầu hết đất nông nghiệp của vùng phân bố ở địa hình từ dốc đến rất dốc chiếm khá nhiều (gần 45% diện tích điều tra). Trong tổng số diện tích khảo sát có hơn 40% diện tích đất phân bố ở độ dốc > 15O, trong đó diện tích >25O chiếm khoảng 7% bao gồm đất xám, đất tầng mỏng, đất đỏ, đất đen. Đây là những nơi có hoạt động canh tác nông nghiệp chủ yếu với độ che phủ thấp. Ngoài độ dốc, đất nông nghiệp Tây Bắc còn có mức độ đá lẫn lớn, đặc biệt là các loại đất hình thành tại chỗ. Điển hình là đất tầng mỏng, thậm chí nhiều loại đất có mức độ đá lẫn lên tới 60-70%. Những vùng đất canh tác có tỷ lệ đá lẫn cao trên 40% tập trung ở các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái. Những vùng đất có nhiều đá lẫn chủ yếu phân bố trên dạng địa hình có độ dốc cao, đã trải qua thời gian canh tác nông nghiệp lâu đời. Địa hình có độ dốc cao, quá trình canh tác không có biện pháp che phủ đất hợp lý gây ra hiện tượng xói mòn, rửa trôi bề mặt rất mạnh do mưa trên đất dốc [8]. Hình 1 và 2 cho thấy hoạt động canh tác cà phê tại một số bản ở Sơn La đã làm mất thảm thực vật che phủ bề mắt đất:
![]() |
![]() |
|
Hình 1. Ảnh cây cà phê mới trồng tại Bản Phé được 4-5 tháng (1/5/2024) [10]. |
Hình 2. Ảnh nương mới đốt Bản Phé, xã Chiềng Nơi, huyện Mai Sơn để chuẩn bị trồng cây cà phê (1/5/2024) [10]. |
Các hoạt động khác tác động lớn tới đất nông nghiệp Tây Bắc: Khai thác khoáng sản/vật liệu xây dựng không theo quy hoạch, trái phép; xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các nhà máy thủy điện, các cụm – khu công nghiệp và đô thị; tàn phá rừng khiến chức năng giữ nước và bảo vệ đất bị suy giảm mạnh.
Chất lượng rừng và tỷ lệ che phủ của rừng có vai trò quan trọng trong bảo vệ tài nguyên đất. Theo công bố vào tháng 6/2023của Bộ Nông nghiệp và PTNT, tổng diện tích rừng của 6 tỉnh Tây Bắc(Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hòa Bình) là 2.677.386 ha, tỷ lệ che phủ tại các tỉnh dao động trong khoảng 43,54 – 63,00 %, cao hơn so với mức trung bình của cả nước là 42 % [2].
Mặc dù vậy, tài nguyên đất Tây Bắc vẫn đang trong tình trạng thoái hóa mạnh. Một nghiên cứu phân tích các nguyên nhân chính gây thoái hóa đất ở khu vực miền núi như sau:
– Suy giảm độ phì nhiêu do canh tác độc canh, thâm canh cao và lạm dụng phân bón hóa học, hóa chất bảo vệ thực vật, nhất là vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn, nhưng ít sử dụng phân bón hữu cơ, phân vi sinh, làm cho đất bị chua hóa, mất chất hữu cơ và kiệt quệ chất dinh dưỡng.
– Tập quán canh tác nương rẫy du canh (đốt nương làm rẫy) gây xói mòn, rửa trôi.
– Trong lâm nghiệp, hiện tượng chặt phá rừng, kỹ thuật khai thác rừng không hợp lý (khai thác trắng), sản xuất nông nghiệp không bền vững trên đất lâm nghiệp còn phổ biến gây xói mòn đất, suy giảm tính chất đất rừng gây hoang mạc hóa, nhất là khu vực Tây Nguyên, Tây Bắc [4].
3. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến tài nguyên đất tại Tây Bắc
Khí hậu là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến đất đai. Khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến đất thông qua lượng nước mưa, nhiệt độ và ảnh hưởng gián tiếp đến đất thông qua yếu tố sinh học. Những thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa, thời điểm mưa, thay đổi về hình thái trong chu trình nước: Mưa – nước bốc hơi…dẫn đến sự thay đổi cơ chế ẩm trong đất, lượng nước ngầm và các dòng chảy. Do vậy BĐKH có tác động mạnh tới tài nguyên đất [7].
Cục Biến đổi Khí hậu đánh giá ảnh hưởng của BĐKH đến tài nguyên đất Việt Nam: “Nắng nóng, hạn hán kéo dài làm tăng nguy cơ đất khô cằn, giảm chất lượng. Gia tăng hạn hán trong mùa khô và tăng lượng mưa trong mùa mưa làm gia tăng xói mòn, sạt lở đất ven sông và vùng cao” [3].
Khí hậu nắng nóng khắc nghiệt do sự phân bố không hài hòa giữa chế độ nhiệt và chế độ mưa có khả năng gây ra tình trạng đất bị khô hạn, bán khô hạn tại. Nắng nóng, hạn hán kéo dài làm đất đai bị khô cằn nhiều hơn dẫn đến suy giảm giảm chất lượng tài nguyên đất, giảm năng suất cây trồng [5].
BĐKH làm lượng mưa thay đổi theo chiều hướng tăng trong mùa mưa gây ra hiện tượng xói mòn nhiều hơn, khiến cho lượng dinh dưỡng trong đất bị mất cao hơn trong suốt các đợt mưa dài. Các quan trắc có hệ thống về xói mòn đất từ 1960 đến tháng 3/2022 cho thấy có khoảng 10 – 20 % lãnh thổ Việt Nam bị ảnh hưởng xói mòn từ trung bình đến mạnh.
Diện tích đất dốc tại vùng Tây Bắc chiếm khoảng 98% nên nguy cơ thoái hóa đất do rửa trôi, xói mòn là rất lớn. Trong 6 tháng mùa mưa hàng năm, lượng đất mất chiếm tới 75 – 100% tổng lượng xói mòn cả năm, còn lại dưới 25% lượng đất bị xói mòn do các trận mưa trong khoảng thời gian chuyển tiếp từ mùa khô sang mùa mưa (tháng 3 – 4) hoặc từ mùa mưa sang mùa khô (tháng 11). Lượng mưa gia tăng trong mùa mưa làm dòng chảy lũ tăng mạnh, dẫn đến tình trạng sạt đất, trượt lở đất làm vùi lấp nhà cửa, khu dân cư, đất sản xuất nông nghiệp, ao nuôi cá, làm hỏng đường giao thông, các công trình xây dựng. Nhiều nơi tại Tây Bắc nơi có độ dốc cao, tầng đất không dày nên những tầng đá vụn, đất không bám được vào lớp đá phía dưới, do vậy tầng đất đá phía trên khi ngấm nhiều nước mưa bị bong ra, trượt lở theo trọng lực. Hiện tượng này quan sát thấy tại một số nương trồng lúa, ngô ở Mường Tè (Lai Châu), Yên Sơn (Sơn La) và Trạm Tấu (Yên Bái) khi có các trận mưa rào đầu vụ . Việc suy giảm cả số lượng cũng như chất lượng rừng góp phần làm cho quá trình xói mòn rửa trôi và sạt lở đất diễn ra mạnh hơn [6].
Nghiên cứu ảnh hưởng của các đợt mưa lớn kéo dài và hoàn lưu cơn bão số 3 cho thấy trong các tháng 8 – 9/2024, sáu tỉnh Tây Bắc bị thiệt hại nặng nề về người, tài sản, sản xuất nông nghiệp, giao thông, các công trình công cộng. Đất bị sạt lở, lũ quét, lũ bùn đá, sụt lún đất, các vết nứt, cung trượt xảy ra tại nhiều địa phương. Khoảng 1.523 hộ dân của 6 tỉnh Tây Bắc bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc có nguy cơ sạt lở đất đá do các vết nứt, cung trượt gây ra, nhiều hộ dân phải di dời. Đây là các minh chứng cho thấy tác động đến tài nguyên đất do các hiện tượng thời tiết cực đoan gây ra [10].
Tóm lại, BĐKH gây ra những hiện tượng thời tiết bất thường, cực đoan ở nhiều nơi như nắng nóng kéo dài, mưa lớn, từ đó làm gia tăng các tình trạng khô hạn, mưa lũ kéo dài. Tại Tây Bắc, những tình trạng này làm cho tài nguyên đất nhanh chóng bị thoái hóa do rửa trôi, bạc mầu, khô cằn, xói mòn, sạt lở. Đa số diện tích đất Tây Bắc trên địa hình dốc và tình trạng phá rừng, canh tác không bền vững làm quá trình thoái hóa tài nguyên đất trở nên nghiêm trọng hơn. Do vậy, cần có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để tiếp tục quản lý, bảo vệ, phát triển tài nguyên rừng và phát triển nông nghiệp bền vững tại Tây Bắc để ứng phó với tình trạng BĐKH đang diễn ra ngày càng phức tạp.
Tài liệu tham khảo
- Bộ Tài nguyên và Môi trường (2021), “Báo cáo đánh giá khí hậu quốc gia”, Nxb Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2023). Quyết định số 2357/QĐ-BNN-KLngày 14/6/2023 công bố hiện trạng rừng toàn quốc.
- Cục Biến đổi Khí hậu (2022). Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Bài đăng website ngày 18/2/2022 Cục Biến đổi Khí hậu.
- Nguyễn Bá Long (2024). Thực trạng thoái hóa đất và giải pháp phòng chống sa mạc hóa, cải thiện chất lượng đất, thích ứng với biến đổi khí hậu tại Việt Nam. Tạp chí Môi trường, 16/7/2024.
- Mai Hạnh Nguyên (2015), Đánh giá tổng quát tác động của biến đổi khí hậu đối với tài nguyên đất đai và các biện pháp ứng phó. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Tập 31, Số 3 (2015) 38-49.
- Phương Đông (2022). Nhận diện ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến tài nguyên đất. https://tainguyenvamoitruong.vn/nhan-dien-cac-anh-huong-cua-bien-doi-khi-hau-den-tai-nguyen-dat-cid11947.html
- Minh Thư (2013). Tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên đất và các giải pháp ứng phó. https://baotainguyenmoitruong.vn/tac-dong-cua-bien-doi-khi-hau-den-tai-nguyen-dat-va-cac-giai-phap-ung-pho-233118.html
- Trần Minh Tiến và cs. (2015), “Đặc điểm tài nguyên đất nông nghiệp vùng miền núi Tây Bắc”, NXB Tạp chí Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Số 14/2015.
- Trần Hương (2021), “Biến đổi khí hậu – những hệ lụy trông thấy ở Tây Bắc”, Báo Tài nguyên và Môi trường, 27/09/2021.
- Vì Quang Huy, Sùng A Hử, Nguyễn Đức Long (2024). Tìm hiểu tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên đất Tây Bắc Việt Nam và các giải pháp ứng phó. Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học – Trường Đại học Tây Bắc.
Tác giả: TS. Đoàn Đức Lân – BM Tài nguyên và Môi trường
Vì Quang Huy – Sinh viên K62 ĐH QLTN&MT


